Dư địa chí một số giá trị tiêu biểu

Nhà thờ dòng họ Nguyễn Trãi ở thôn Chi Ngãi, phường Cộng Hòa (Chí Linh). Ảnh: Thành Chung
Sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, trong thời kỳ Lý-Trần từ thế kỷ XI-XV, đã xuất hiện nhiều tài liệu ghi chép về lịch sử, địa lý, văn hóa của nước Đại Việt. Có những tài liệu tiêu biểu như Chiếu dời đô (1010) của Lý Thái Tổ, Nam Bắc phên giới địa đồ (1172) được biên soạn thời vua Lý Anh Tông, Đại Việt sử ký (1272) của Lê Văn Hưu, Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (1329), An nam chí lược (1333) của Lê Trắc… Tuy nhiên, đó chỉ là những tài liệu tiền địa chí. Đến thế kỷ XV, ở nước ta đã có điều kiện để ra đời sách địa chí. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thành công, trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hóa dân tộc bước vào thời kỳ phục hưng lần thứ hai. Nhà Lê tập trung xây dựng chế độ phong kiến tập quyền, củng cố bộ máy chính quyền ở các địa phương. Việc phát triển nông nghiệp được triều Lê chú trọng. Nhà nước coi nông nghiệp là nền tảng, xây dựng hệ thống đê điều và các công trình thủy lợi, khai khẩn đất hoang, mở rộng phát triển các ngành thủ công nghiệp. Ngay từ khi mới lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã tiến hành kiểm kê hộ khẩu, làm sổ điền bạ, áp dụng chế độ quân điền. Trong thời kỳ này, việc đào tạo nho sĩ được tổ chức rất chính quy, Nho giáo nhanh chóng chiếm vị trí ưu thế trong đời sống tư tưởng so với các tôn giáo khác.
Nguyễn Trãi (1380-1442) là một nhân vật quan trọng trong sự phát triển của đất nước thời Lê. Ông không chỉ là một trong những người tổ chức và lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống lại quân Minh, mà còn là một nhà văn hóa kiệt xuất. Đồng thời, ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho địa chí học Việt Nam.
Cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn thừa nhận rằng Dư địa chí của Nguyễn Trãi là tác phẩm địa chí đầu tiên và đầy đủ của Việt Nam, được viết vào năm 1435. Nguyễn Trãi đã được biết đến qua Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập và một số tác phẩm văn thơ khác. Một đóng góp quan trọng khác của ông là sách Dư địa chí, một tài liệu vô cùng quý giá về lịch sử địa lý. Nghiên cứu công trình này, chúng ta có thể thấy nhiều giá trị đáng chú ý.
Nguyễn Trãi viết địa chí là để giúp nhà vua và triều đình tìm hiểu về đất nước, con người, tài nguyên của dân tộc để thêm một bước khẳng định dân tộc mình, từ đó xây dựng một quốc gia độc lập toàn diện. Thông qua những tư liệu ghi chép, cuốn sách đã khắc họa diện mạo của nước Đại Việt cũng như từng địa phương. Sau phần giới thiệu qua vị trí chung của toàn quốc, đơn vị hành chính, nhân khẩu, quốc hiệu, quốc đô qua các thời đại, Nguyễn Trãi chép riêng về các đạo thời Lê sơ. Thường thường về mỗi đạo có hai phần, phần trước chép các sông núi đặc biệt của đạo ấy và phần sau nói về diên cách địa lý, vị trí, cương vực, số phủ huyện, châu rồi mới nói đến đất đai, sản vật phong tục tập quán và khí chất con người cùng các đồ cống tiến cho vua. Chẳng hạn, về đạo Hải Dương tác giả chép: Biển cùng Lục Đầu, Yên Tử ở về Hải Dương. Ở vùng này đất thì trắng, mềm, hợp với việc trồng thuốc hút; ruộng thì vào hạng thượng trung. Huyện Tiên Phong có lụa. Huyện Bất Bạt có dầu, rào chắn, gai, đay, và đồ nhung liệu. Huyện Mỹ Lương có ngà voi, sừng tê. Huyện Tam Nông có chè tai mèo, sáp vàng, sáp trắng. Làng Nguyên Thán có vải nhỏ. Sông Hát Giang có cá anh vũ. Huyện Sơn vĩ có trĩ trắng; sơn; tơ. Nhưng Dư địa chí không phải chỉ do một mình Nguyễn Trãi soạn mà nó là một công trình tập thể. Ngoài những câu chép đơn giản về các đạo của Nguyễn Trãi, sách này càng được sáng rõ hơn, đầy đủ hơn nhờ lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn đều là người đồng thời với Nguyễn Trãi. Đọc Dư địa chí, chúng ta thấy được những sản phẩm phong phú của Tổ quốc. Đất nước ta từ xưa, theo Dư địa chí, đã có những khoáng sản dồi dào đồng thiếc ở Hưng Hóa; chì, đồng,bạc, vàng, sắt, đan sa, diêm tiêu ở Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn; tùng, bách, hòe, liễu của Hải Dương; quế, sa nhân ở Hưng Hóa, mây ở Tuyên Quang; gỗ, đồng của Cao Bằng; thuốc lá, hồ tiêu của Thuận Hóa… Ấy là chưa kể đến thổ sản khác, từ cá anh vũ ở sông Hát đến cá rô làng Thịnh Liệt; từ mật ong vàng tinh khiết, vị ngọt ở Tuyên Quang đến đá hoa có vân như sắc mây, có thể làm khánh ở Hải Dương; từ muối biển đến ngọc côn dao; từ gà chọi, thỏ trắng đến chim trĩ và voi rừng. Thủ công nghiệp cũng có địa vị của nó. Trước hết tác giả ghi chép về các nghề thủ công của Thượng Kinh (kinh đô Thăng Long). Ông đã kể ra phường Tàng Kiếm (nay là đoạn phố Lê Duẩn từ Cửa Nam đến ngã tư Khâm Thiên) làm kiệu, áo giáp, đồ đài, mâm, võng, gấm trừu, dù lọng. Phường Yên Thái (vùng chợ Bưởi ngày nay) làm giấy. Phường Thụy Chương (vùng Thụy Khuê ngày nay) và phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa. Phường Hà Tân (ở khu phố Hàng Cá ngày nay) nung đá vôi. Phường Hàng Đào nhuộm điều. Phường Tả Nhất (có lẽ phố Hàng Quạt ngày nay) làm quạt. Phường Đường Nhân (có lẽ là phố Hàng Ngang ngày nay) bán áo diệp y…Trên thực tế ở Thăng Long chắc chắn những phường nghề này xuất hiện trước khi ghi chép và phản ánh trong tài liệu này. Dư địa chí còn khảo tả về các nghề thủ công và sản vật nổi tiếng ở các trấn như the Kim Bảng, lụa Thanh Oai, rượu sen, rượu cúc Hoàng Mai ở Sơn Nam; lụa Tiên Phong, đay Bất Bạt ở Sơn Tây; gấm; lĩnh Yên Bác ở Lạng Sơn; vải nhỏ ở các ấp Mao Điền, Bất Bế, Hội Am (Hải Dương). Những tên làng quen thuộc đã đi vào ca dao như Huê Cầu nổi tiếng với nghề nhuộm, Bát Tràng nổi tiếng với nghề gốm được chép vào tác phẩm địa lý đầu thế kỷ XV này. Những tấm vải thâm, những bộ bát đĩa của hai làng này là những đồ cống tiến cho vua phong kiến Trung Quốc.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo không chỉ đứng lên với lá cờ độc lập dân tộc mà còn truyền tải tinh thần văn hóa: Nước Đại Việt của chúng ta thực sự là một quốc gia văn minh. Với địa hình đa dạng từ núi non đến sông suối, phong tục ở miền Bắc và miền Nam cũng có sự khác biệt. Việc duy trì tư tưởng trong Bình Ngô đại cáo đã khẳng định rằng đất nước chúng ta có một truyền thống lịch sử văn hiến, có địa hình đa dạng từ núi non đến sông suối, có thủ đô, cũng như có phong tục tập quán riêng. Ngay từ đầu sách, Nguyễn Trãi đã viết: “Đất nước chúng ta mới mở cửa, với sông suối, phía đông giáp biển, phía tây giáp nước Thục, phía nam giáp Chiêm Thành, phía bắc giáp hồ Động Đình.” Hùng Vương tiếp nối ngai vàng, lập quốc gọi là Văn Lang, đặt đô tại Phong Châu. Vua Thục đặt tên cho quốc gia là Âu Lạc, đặt đô tại Phong Khê (nay là Cổ Loa). Tiền Lý gọi là Vạn Xuân, đặt đô tại Long Biên. Ngô gọi nước là Tiền Ngô, đặt đô tại Loa thành. Đinh gọi là Đại Cồ Việt, đặt đô tại Hoa Lư. Lý gọi là Đại Việt, đặt đô tại Thăng Long. Trần lên nắm quyền triều Lê, quốc hiệu vẫn theo như Lý, và cũng đặt đô tại đó.
Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc được thể hiện qua ngôn ngữ và cách ăn mặc. Nguyễn Trãi khuyến cáo rằng người Việt không nên bắt chước ngôn ngữ và trang phục của các nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để tránh làm loạn phong tục trong nước. Nguyên nhân là tiếng Ngô (nhà Minh) nói khó hiểu, phải dịch mới biết; tiếng Lào nói trong họng; tiếng Xiêm, Chiêm, Chân Lạp nói trong cổ như tiếng chim quẹt; tuy nhiên, không nên bắt chước để tránh gây loạn tiếng nói trong nước. Người Ngô đã lâu chìm đắm trong phong tục người Nguyên, có kiểu tóc bện, răng trắng, áo ngắn có tay dài, mũ, xiêm rực rỡ như lớp lá. Người Minh đã khôi phục lại lối ăn mặc của thời Hán, thời Đường, nhưng phong tục vẫn chưa thay đổi. Người Lào thường quấn vải lông vào người giống áo cà sa nhà Phật. Người Chiêm thường dùng khăn che đùi để lộ hình thể. Người Xiêm La và người Chân Lạp thường dùng vải bọc tay và gối. Tất cả những phong tục này không nên được bắt chước để tránh làm loạn phong tục của người Việt.
Để tôn vinh chủ quyền dân tộc và đảm bảo an ninh trong nước, tác giả đã tuyên bố rằng người nước ngoài không được tự ý vào nội trấn. Thay vào đó, họ phải ở tại các địa điểm như Vân Đồn, Vạn Ninh, Cần Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thông Lĩnh, Phú Lương, Tam Kỳ và Trúc Hoa. Nội trấn, nơi còn được gọi là kinh trấn, bao gồm Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây và Sơn Nam, là 4 tuyến đường chính. Các địa điểm này được coi là các cửa khẩu ngoại trấn, nơi quy định và thực hiện các thủ tục kiểm soát cho người nước ngoài khi nhập cảnh Đại Việt.
Các cuốn sách địa chí của nước ta từ trước đến nay đã đề cập đến diên cách, sự thay đổi không gian và tên gọi của mỗi đơn vị địa lý qua các giai đoạn lịch sử. Sự thay đổi này không phải là ngẫu nhiên, mà nó phản ánh tư duy và quan điểm của từng giai cấp, chế độ xã hội và thời đại về vấn đề lãnh thổ. Dư địa chí được coi là cuốn sách địa lý – lịch sử đầu tiên có giá trị của dân tộc ta, trong đó xác định vị trí địa lý của mỗi địa phương và các địa danh. Dư địa chí ghi chép rằng thời kỳ Lê, nước ta được chia thành 15 đạo: Thượng kinh (tức kinh đô), Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, An Bang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Nam giới (tức Quảng Nam), Hưng Hóa, Lạng Sơn, Cao Bằng. Cuốn sách này ghi lại các núi sông đặc biệt cũng như tên gọi các đơn vị hành chính của mỗi địa phương, xác định các ranh giới địa lý hiện tại và lịch sử, đặc biệt là vào thế kỷ XV. Dư địa chí cũng nêu rõ vị trí chiến lược của các đạo, với Thượng kinh được coi là trung tâm. Xung quanh Thăng Long có 4 đạo trấn như Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và đều đứng đầu các phân đầu các hướng bảo vệ Thăng Long. Tác giả đã xác định rằng: Hải Dương là trấn đầu tiên trong bốn trấn kinh và đứng đầu phân đầu phía đông. Sơn Tây là trấn thứ hai trong bốn trấn kinh và đứng đầu phân đầu phía tây. Sơn Nam là trấn thứ ba, đứng đầu các xứ nam. Kinh Bắc là trấn thứ tư trong bốn trấn kinh và đứng đầu phân đầu phía bắc.
Dư địa chí làm nổi bật phương pháp biên soạn địa chí vào thế kỷ XV, với sự tóm gọn và súc tích nhưng vẫn thể hiện được diện mạo của đất nước và dân tộc. Nó đã trở thành một bộ quốc chí mẫu mực, khiến không ai có thể viết địa chí mà không quan tâm đến hai vấn đề quan trọng là lãnh thổ và giống nòi. Dư địa chí còn được gọi là An nam Vũ cống, vì Nguyễn Trãi đã sử dụng thể văn của thiên Vũ cống trong Kinh Thư Trung Quốc để viết nên nó. Vũ cống là một tác phẩm địa lý Trung Quốc cổ đại, mô tả về sông núi, đất đai và sản vật của các châu thời vua Vũ, cũng như định lệ cống cho các châu. Dư địa chí chính là công cụ tra cứu và quản lý cho nhà vua và các quan lại trong triều và các địa phương. Đối với quan lại ở các địa phương, việc tìm hiểu về địa phương mà mình đang trị nhậm không chỉ là vì lý do và sở thích, mà còn để thi hành công vụ một cách hiệu quả và thấu hiểu tình hình địa phương.
Dư địa chí chứa đựng hàng trăm ngàn ước mơ, lòng tận hưởng cùng lo lắng của dân tộc. Lòng tận hưởng bởi vì đất nước Đại Việt chúng ta giàu có về tài nguyên thiên nhiên và có một truyền thống lịch sử và văn hóa phong phú. Lo lắng vì tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm do con người tạo ra khi khai thác phải được giao nộp cho quan vua phong kiến. Tất cả những điều này được phản ánh qua ngòi bút tài hoa của một tấm lòng nhân hậu, một anh hùng, một nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc là Nguyễn Trãi.
Sách địa chí có vai trò quan trọng trong di sản văn hóa của dân tộc. Dù đã trôi qua hơn sáu trăm năm kể từ khi Nguyễn Trãi soạn Dư địa chí, công trình này vẫn giữ giá trị. Hiện nay, chúng ta cần những công trình địa chí quốc chí có tầm cỡ để cung cấp kiến thức và là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để nâng cao chất lượng biên soạn các công trình địa chí, cần tìm hiểu Dư địa chí của Nguyễn Trãi, bởi tài liệu này đầy đủ những đặc trưng tiêu biểu của sách địa chí.