Quy định tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi chi tiết nhất

Quy định tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi chi tiết nhất

Tài Chính
23/09/2023 by ACRANUP Network
350
Sử dụng quyền hạn vị trí để tận dụng lợi ích cá nhân thông qua việc nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để thúc đẩy người đang giữ chức vụ hoặc quyền hạn làm hoặc không làm một nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của họ. Lợi dụng có thể hiểu
quy-dinh-toi-loi-dung-chuc-vu-quyen-han-de-truc-loi-chi-tiet-nhat-640908

Quy định tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi chi tiết nhất

Sử dụng quyền hạn vị trí để tận dụng lợi ích cá nhân thông qua việc nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để thúc đẩy người đang giữ chức vụ hoặc quyền hạn làm hoặc không làm một nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của họ.

Lợi dụng có thể hiểu là tận dụng các điều kiện thuận lợi để thực hiện một việc, hoặc để lợi dụng một việc một cách không công bằng.

Chức năng được hiểu là một vị trí, một vai trò trong một tổ chức, trong tập thể.

Trục lợi được hiểu là tìm kiếm lợi ích một cách không công bằng.

Từ đó, ta có thể hiểu việc lợi dụng quyền hạn trong chức vụ để tác động đến người khác nhằm mục đích cá nhân là hành vi mà người đó sử dụng vị trí công việc của mình để tác động đến khách hàng với mục đích hưởng lợi không đúng đắn.

Vi phạm tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác nhằm lợi ích cá nhân, được quy định trong điều 358 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017.

Sử dụng quyền hạn và chức vụ để tận dụng lợi ích vật chất từ người khác nhằm giúp mình hoàn thành nhiệm vụ.

Sử dụng quyền hạn vị trí để tận dụng lợi ích cá nhân thông qua việc nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để thúc đẩy người đang giữ chức vụ hoặc quyền hạn làm hoặc không làm một nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của họ.

Mục Lục

Quy định chi tiết của luật pháp về hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn để lợi ích cá nhân

Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017 để quy định về tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người chức vụ và quyền hạn để trục lợi.

Điều 366. Tội lợi dụng tác động đối với người có vị trí quyền hạn để lợi dụng.

1. Ai ai trực tiếp hoặc thông qua trung gian hưởng lợi bất kỳ điều gì sau đây để sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy người giữ chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một công việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một công việc không được phép làm, sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ từ 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

A) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 2.000.000 đến dưới 100.000.000 đồng.

B) Lợi ích phi vật chất không vật chất.

2. Vi phạm hành vi thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì sẽ bị án tù từ 02 năm đến 07 năm:.

A) Phạm tội từ 02 lần trở lên;

B) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

C) Tái vi phạm nguy hiểm.

3. Khi phạm tội liên quan đến số tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, người phạm tội sẽ bị đánh phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

4. Người vi phạm cũng có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 50.000.000 đồng.

Tín hiệu pháp lý của tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lợi ích cá nhân

Vi phạm luật khi sử dụng chức vụ quyền hạn để lợi dụng và gây tổn hại cho người khác, khi các dấu hiệu tội phạm sau đây được đáp ứng:

Khi hành vi này gây tổn thất về tài chính, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, hoặc gây hại đến lợi ích phi vật chất, nó được coi là một hành vi mạo hiểm đối với xã hội.

Người chịu trách nhiệm hình sự, đã đủ tuổi và có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự, là chủ thể của hành vi.

Người phạm tội này đã tự ý vi phạm một cách trực tiếp, họ hiểu rõ rằng hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội, đã biết trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Tin mới: 🏆  Khi nào được xác định là xung đột lợi ích và xử lý xung đột lợi đó như thế nào?

Vi phạm quyền hạn chức vụ để tận dụng lợi ích được quy định trong Bộ luật Hình sự. Khi vi phạm theo quy định tại Điều 358 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017 và hành vi này được coi là hành vi phạm tội.

Các chỉ báo pháp lý của hành vi lạm dụng quyền hành để lợi ích cá nhân

Về đối tượng của tội phạm – Điều 366 Bộ luật hình sự

Vi phạm tội lợi dụng chức vụ và quyền hạn để chiếm đoạt lợi ích cá nhân, thuộc vào nhóm tội phạm chức vụ. Nhóm tội phạm này tập trung vào các quan hệ xã hội có trách nhiệm đảm bảo sự hoạt động chính đáng của cơ quan và tổ chức.

Về phía khía cạnh khách quan của tội phạm – Điều 366 Bộ luật hình sự

Theo Điều 358, việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đòi, nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác (vật chất và tinh thần) được mô tả theo cách khách quan. Cách thức nhận tiền, tài sản,… Có thể trực tiếp từ người đưa hoặc thông qua nhiều người trung gian, cũng có thể nhận trước hoặc sau khi thực hiện yêu cầu từ bên đưa.

Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn là việc sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm, nhằm đạt được lợi ích bất kỳ.

Sử dụng tác động của mình để khuyến khích người khác là hành vi tận dụng mối quan hệ với người khác, người đó cũng có vị trí, quyền lực. Mối quan hệ này là do vị trí, quyền lực mang lại cho người phạm tội, và vì có vị trí, quyền lực nên có tác động nhất định đối với người bị khuyến khích.

Người bị thúc đẩy khi người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hoặc không thực hiện một nhiệm vụ thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của mình hoặc thực hiện một việc không được phép làm.

Người bị thúc đẩy có thể là những người sử dụng chức vụ và quyền hạn trong quá trình làm nhiệm vụ, nhưng hành vi của họ chỉ có thể bị xem là vi phạm công vụ nếu nó không tuân thủ theo quy định và nếu họ không biết rõ mục đích của người thúc đẩy.

Tin mới: 🏆  Công chúng mục tiêu là gì? Tầm quan trọng của đối tượng này

Ở tội phạm này, người phạm tôi sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình và trực trực tiếp hoặc gián tiếp.

Trực tiếp tại nơi, người phạm tội sử dụng vị trí và quyền lực của mình để tác động đến người khác, buộc người bị ảnh hưởng phải tuân theo. Gian tiếp tại nơi, người phạm tội giải quyết theo yêu cầu của người trao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thông qua một người có vị trí và quyền lực khác.

Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình trong quá trình thi hành công vụ để thực hiện hành vi vi phạm. Họ sử dụng chức vụ, quyền hạn đó trực tiếp để thực hiện hành vi phạm tội.

Tội này khác với tội nhân hối lộ ở điểm, tội nhận hối lộ là khi người đó trực tiếp thực hiện hoặc không thực hiện một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Trong tội này, chủ thể tác động bằng cách thúc đẩy những người có quyền hạn khác để hành động hoặc không hành động theo yêu cầu của người mang lợi ích.

Về đối tượng của tội phạm – Điều 366 Bộ luật hình sự

Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hưởng lợi từ việc ảnh hưởng đến người khác là người có đủ khả năng chịu trách nhiệm hình sự, tức là người đã đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi, không thuộc các trường hợp mất năng lực hành vi hình sự.

Theo quy định tại Điều 352 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2015, người được coi là người có chức vụ là những người được bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc theo một hình thức khác, có thể có hoặc không có mức lương, và được giao phó thực hiện một nhiệm vụ cụ thể và có quyền hạn tương ứng trong quá trình thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ.

lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi

Về mặt cá nhân của hành vi phạm tội – Điều 366 Bộ luật hình sự

Lỗi cố ý trực tiếp là việc sử dụng chức vụ, quyền hạn để lợi dụng và gây ảnh hưởng đến người khác với mục đích trục lợi.

Người vi phạm tội nhận thức rõ rằng hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy trước những hậu quả của hành động đó và mong muốn chịu trách nhiệm với hậu quả xảy ra.

Tin mới: 🏆  Cập nhật kiến thức cơ bản về Spot Rate là gì cho người mới bắt đầu

Mức hình phạt vi phạm sử dụng chức vụ quyền hạn để lợi dụng

Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017 để quy định về khung hình phạt cho tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người chức vụ và lợi dụng quyền hạn.

Tội này được quy định trong khoản 1 Điều 366 của Bộ Luật hình sự. Mức hình phạt cơ bản cho tội này là từ 01 năm đến 06 năm tù đối với:

Các tài sản có giá trị từ 2.000.000 đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vì vi phạm hành vi này.

Lợi ích vô vật chất.

Hành vi phạm tội được quy định trong Khoản 2 Điều 358 của Bộ Luật hình sự sẽ bị xử phạt tù từ 06 năm đến 13 năm.

Tổ chức là một hình thức đồng phạm mà những người thực hiện tội phạm, người phạm tội và những người có chức vụ, quyền hạn cùng nhau tạo ra, với sự câu kết chặt chẽ và phân công nhiệm vụ.

Nếu phạm tội 02 lần trở lên, với mỗi lần đều có đủ yếu tổ cấu thành tội phạm, nhưng chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự.

Tiền bạc, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng;

Gây tổn hại về tài sản từ 1 tỷ đến dưới 3 tỷ đồng.

Với hành vi đó, mức hình phạt tại khoản 3 của Điều 366 Bộ Luật hình sự được tăng lên từ 13 năm đến 20 năm tù theo Khoản 3 của Điều 358.

Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

Gây tổn hại về tài sản từ 3 tỷ đến dưới 5 tỷ đồng.

Khung hình phạt tại khoản 4 Điều 366 Bộ Luật hình sự là phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân. Mức hình phạt được tăng nặng theo Khoản 4 Điều 358 trong trường hợp có hành vi tương tự.

Tiền bạc, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên;.

Gây tổn hại về tài sản từ 5 tỷ đồng trở lên.

Mức hình phạt tại khoản 5 Điều 366 Bộ Luật hình sự là hình phạt bổ sung, bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ trong thời gian từ 01 năm đến 05 năm và phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Các yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được áp dụng khi phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để tận dụng

Theo Điều 51 Bộ luật hình sự, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 của Điều 51, Hội đồng xét xử có thể xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cụ thể,

Tin mới: 🏆  Bảo hiểm là gì? Loại hình tham gia và những lợi ích của bảo hiểm

Các sự việc các sự việc sau đây là sự việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Kẻ phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt hậu quả của tội ác.

B) Kẻ phạm tội tự nguyện sửa chữa, đền bù thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;.

C) Phạm tội khi vượt quá giới hạn phòng vệ hợp lý.

D) Phạm tội khi vượt quá yêu cầu của tình huống cấp bách;

Đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ đối tượng vi phạm;.

E) Phạm tội trong tình huống bị kích động về tinh thần bởi hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra.

G) Bị kết tội vì tình huống đặc biệt khó khăn không phải do bản thân gây ra.

H) Phạm tội nhưng chưa gây tổn hại hoặc gây tổn hại không đáng kể;.

I) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp không nghiêm trọng;.

K) Bị kết tội vì bị người khác đe dọa hoặc bắt buộc.

L) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;.

M) Phạm tội do kém tiến bộ.

N) Phụ nữ mang bầu là người phạm tội.

Người vi phạm là những người từ 70 tuổi trở lên.

Người vi phạm là người tàn tật nghiêm trọng hoặc tàn tật đặc biệt nghiêm trọng.

Người phạm tội là người mắc phải bệnh tật hạn chế khả năng hiểu biết hoặc điều khiển hành vi của mình.

R) Người vi phạm tội thú nhận tội.

S) Người vi phạm tội thành thật khai báo, hối hận hối cải;.

Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án.

Người vi phạm đã trải qua quá trình chuộc tội.

V) Kẻ phạm tội là người có thành tích ưu việt trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;.

X) Kẻ phạm tội là kẻ có đóng góp với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người hy sinh.

Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự, cũng có quy định về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt thấp nhất trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tin mới: 🏆  Ứng phó với biến đổi khí hậu - Quan điểm của thế giới và Việt Nam

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt áp dụng, nhưng không cần thiết phải trong khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Nếu đủ điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này, nhưng chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt nhẹ nhất, Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Do đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc có từ hai tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, bị cáo còn có thể bị áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt.

Tại sao nên sử dụng dịch vụ pháp lý khi có liên quan đến việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gây tổn hại cho người khác với mục đích lợi ích cá nhân

Oan, sai, tình trạng bị cung, nhục hình trong vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay không ít.

Tình trạng này không chỉ vi phạm trực tiếp quyền tự do, danh dự, nhân phẩm… Mà trong nhiều trường hợp, còn cướp đi quyền sống của con người.

Ở Việt Nam, không hiếm trường hợp xảy ra tình trạng “hành chính hóa” hoặc “dân sự hóa” hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm).

Việc bỏ lọt tội phạm xảy ra khi tố giác, tố cáo hoặc tin báo tội phạm của tổ chức, doanh nghiệp, công dân không được giải quyết đúng theo quy định pháp luật.

Không truy tố hoặc truy tố sai hành vi phạm tội, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, các đương sự.

Việc tham gia của luật sư trong lĩnh vực hình sự, đặc biệt là với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự, được xem là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên.

Công việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo và người bị hại không chỉ là một nghề nghiệp mà còn là một trách nhiệm xã hội của người luật sư để duy trì công lý.

Add a comment