Tạp chí cộng sản

Tạp chí cộng sản

Tài Chính
22/09/2023 by ACRANUP Network
322
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan các mô hình khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia TECHFEST 2021 và Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh WHISE 2021 _Ảnh: Tư
tap-chi-cong-san-363839
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan các mô hình khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia TECHFEST 2021 và Tuần lễ Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh WHISE 2021 _Ảnh: Tư liệu

Về việc cải tiến và tạo ra những điều mới mẻ.

Thực tế phát triển của các nền kinh tế lớn trên thế giới cho thấy, thực hiện các chuyển đổi về khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ trực tiếp thay đổi diện mạo của nền kinh tế. Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX, khi khoa học – công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo cũng được hiểu là đổi mới sáng tạo của khoa học – công nghệ, là một tiến trình trong những phân đoạn khác nhau của phát triển khoa học – công nghệ(1), tập trung vào nghiên cứu, phát triển các phát minh, sáng chế về công nghệ. Theo học giả Giô-xép Xchăm-pi-tơ (Joseph Schumpeter), đổi mới sáng tạo đề cập đến quá trình đưa ra các sáng tạo mới, sản phẩm mới, phương pháp sản xuất mới, mở ra thị trường mới, phát triển nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới và tạo ra cấu trúc thị trường mới nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng hóa, dịch vụ(2). Sau này, quan niệm về đổi mới sáng tạo chuyển biến sang hướng ứng dụng nhiều hơn, như quan điểm của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) năm 2005: “Đổi mới sáng tạo là thực thi một sản phẩm (hàng hóa/dịch vụ) hoặc một quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể, một phương pháp marketing mới, hay một biện pháp mới mang tính tổ chức trong thực tiễn hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ với bên ngoài”(3).

Đổi mới sáng tạo là quá trình phát triển các hoạt động nghiên cứu, phát triển phát minh, sáng chế công nghệ liên quan đến vai trò của trung tâm nghiên cứu, cơ sở đào tạo, nguồn nhân lực và quá trình thực hiện sáng tạo công nghệ trong thực tế, đồng thời liên quan đến vai trò của doanh nghiệp và các thể chế xung quanh hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm chính sách, thể chế tài chính, cơ sở hạ tầng giáo dục, truyền thông và điều kiện thị trường. Ngoài ra, đổi mới sáng tạo còn bao gồm chính sách và chiến lược công nghệ để định hướng và phát huy vai trò của các yếu tố trên nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, cải tiến kỹ năng của lao động và tối đa hóa hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội.

Các chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) được sử dụng để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới sáng tạo. GII tập trung vào ba nhóm chỉ số chính: GII tổng thể, GII đầu vào và GII đầu ra. GII tổng thể đo lường sự đổi mới sáng tạo tổng thể, trong khi GII đầu vào và GII đầu ra tập trung vào các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình đổi mới sáng tạo. Các yếu tố đầu vào bao gồm thể chế, nguồn nhân lực và hoạt động nghiên cứu, kết cấu hạ tầng và sự chuyên nghiệp của thị trường. Các yếu tố đầu ra bao gồm kết quả của quá trình đổi mới, bao gồm kết quả nghiên cứu khoa học và thành quả sáng tạo tri thức và công nghệ.

Nhìn vào tình hình kinh tế thế giới hiện nay, các quốc gia phát triển như Thụy Sỹ, Thụy Điển, Mỹ, Anh, Xin-ga-po, Phần Lan, Đức đều đứng đầu trong việc đổi mới và sáng tạo. Các doanh nghiệp công nghệ của những quốc gia này cũng có ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới. Các tập đoàn công nghệ lớn như Amazon, Google, Apple, Facebook, AT&T, Walmart (Mỹ), ICBC, Ping An, Huawei, China Construction Bank, Wechat (Trung Quốc), Toyota (Nhật Bản), Samsung (Hàn Quốc), Mercedes-Benz, Volkswagen (Đức), Saudi Aramco (A-rập Xê-út), Shell (Hà Lan) có giá trị thương hiệu lớn và sử dụng công nghệ cao để phát triển nhanh chóng và chi phối kinh tế không chỉ ở quốc gia mình mà còn trên toàn thế giới. Điều này chứng tỏ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đã kết nối thế giới thành một cộng đồng và giúp con người giải quyết các vấn đề kinh tế, di cư quốc tế, an ninh toàn cầu, biến đổi khí hậu, dịch bệnh trong thời đại hiện nay. Đồng thời, nó cũng mở ra cơ hội cho các nước kém phát triển học tập và ứng dụng công nghệ sáng tạo của các nước tiên tiến hơn, từ đó giảm rủi ro và phát triển năng lực, cải thiện cuộc sống của người dân trong nước.

Tin mới: 🏆  Các Quy Định Về Thuế Xuất Nhập Khẩu Tại Việt Nam

Chìa khóa vượt qua khó khăn.

Toàn cầu hóa kỹ thuật được liên kết chặt chẽ với toàn cầu hóa kinh tế, và tính chất khoa học – công nghệ đã thâm nhập sâu và rộng vào các hoạt động kinh tế – xã hội và cuộc sống của con người. Đây là xu hướng phát triển hiện nay và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Theo báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể về chỉ số đổi mới sáng tạo trong ba năm liên tiếp (2019-2021). Việt Nam đứng đầu trong nhóm 30 quốc gia có thu nhập trung bình thấp về đổi mới sáng tạo và đạt vị trí thứ 42/131 trong việc nghiên cứu và đánh giá về đổi mới sáng tạo vào năm 2020. Trong năm 2021, Việt Nam đạt vị trí thứ 44/132 trong nền kinh tế được nghiên cứu, vượt qua Ấn Độ (48) và Philippines (50)(8). Trong khi các nước khác trong khu vực có thu nhập trung bình cao, chỉ có Trung Quốc đạt vị trí thứ 14 trong top 20 quốc gia có chỉ số đổi mới sáng tạo cao nhất thế giới.

Theo số liệu thống kê năm 2020, chỉ số đầu vào đổi mới sáng tạo của Việt Nam có các vị trí xếp hạng như sau: về thể chế môi trường chính trị, pháp luật, kinh doanh, Việt Nam xếp thứ 83/131 quốc gia về đổi mới sáng tạo; về nguồn nhân lực và hoạt động nghiên cứu (giáo dục, giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ) xếp thứ 79; về kết cấu hạ tầng (công nghệ thông tin và truyền thông, hạ tầng chung, năng lượng sinh thái) xếp vị trí thứ 73; về sự chuyên nghiệp của thị trường (tín dụng, đầu tư, thương mại và cạnh tranh) có thứ hạng cao hơn, xếp thứ 34 và chỉ số mức độ hoàn thiện của các doanh nghiệp (nhân lực tri thức, liên kết đổi mới, khả năng hấp thụ kiến thức) ở vị trí thứ 39. Tổng thể đầu vào đổi mới sáng tạo là 62/131. Trong khi đó, chỉ số đầu ra của Việt Nam được đánh giá khá cao với các vị trí xếp hạng lần lượt là 37 về kết quả khoa học (tài sản vô hình, hàng hóa, dịch vụ sáng tạo, sáng tạo trực tuyến) và thứ 38 về thành quả sáng tạo tri thức, công nghệ (sáng tạo, tác động và phổ biến các tri thức).

Theo đánh giá của WIPO, Việt Nam đã đứng vị trí thứ 42 trong hai năm liên tiếp (2019, 2020) và thứ 44 trong năm 2021 về đổi mới sáng tạo. Việt Nam, cùng với Kê-ni-a và Ấn Độ, đã được công nhận là những quốc gia đạt được thành tựu sáng tạo trong 10 năm liên tiếp từ 2011 đến 2020, đặc biệt là trong lĩnh vực thị trường và doanh nghiệp (9). Ngoài ra, Việt Nam cũng là quốc gia đứng đầu trong nhóm 29 nền kinh tế có mức thu nhập trung bình đạt thành tựu đổi mới vào năm 2020. Các chuyên gia nhận định rằng các quốc gia như Việt Nam, U-crai-na, Phi-líp-pin và Ấn Độ, với điểm khởi đầu là thu nhập trung bình thấp, đang ngày càng phát triển đổi mới sáng tạo một cách nhanh chóng (10).

Tin mới: 🏆  Chuyên trang cung cấp tin tức đầu tư hàng đầu

Với việc tiếp tục coi đổi mới sáng tạo là một ưu tiên quốc gia, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao các chỉ số đổi mới. Điển hình là việc xây dựng 40 nền tảng công nghệ số quốc gia trên nhiều lĩnh vực, từ nền tảng chia sẻ, tổng hợp, phân tích dữ liệu đến họp trực tuyến, thanh toán, định danh và thiết bị Internet vạn vật (IoT), AI, trợ lý ảo, chuỗi cung ứng. Sự hỗ trợ của công nghệ số đã giúp Việt Nam đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và bảo đảm sự ổn định và phục hồi của nền kinh tế. Đồng thời, để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đổi mới sáng tạo, Việt Nam đã thành lập hệ thống và mạng lưới đổi mới sáng tạo quốc gia, thu hút hơn 1.000 chuyên gia và nhà khoa học trong và ngoài nước. Ngoài ra, Việt Nam cũng tạo điều kiện cho việc nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp sáng tạo thông qua các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và xây dựng các khu công nghệ cao. Tất cả những biện pháp này sẽ giúp nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Nhờ những cải thiện này, Việt Nam đã giữ vững vị trí dẫn đầu trong nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập. Đáng chú ý, chỉ số về trình độ phát triển của thị trường Việt Nam đã tăng 12 bậc, từ vị trí thứ 34 lên vị trí thứ 22 so với năm 2020. Các chỉ số về thương mại, đa dạng hóa và quy mô thị trường cũng đã có sự tăng trưởng mạnh, từ vị trí thứ 49 lên vị trí thứ 15. Việc đa dạng hóa các ngành trong nước cũng đạt thứ hạng khá cao trong bảng xếp hạng (9/134 nước).

Khoa học - công nghệ và sáng tạo mới là cơ sở để thực hiện việc chuyển đổi số quốc gia, góp phần quan trọng vào việc cải thiện cuộc sống của nhân dân.
Đổi mới sáng tạo cùng với khoa học – công nghệ là nền tảng để thực hiện chuyển đổi số quốc gia, góp phần quan trọng nâng cao đời sống của nhân dân (Trong ảnh: Đoàn viên, thanh niên trải nghiệm công nghệ thực tế ảo)_Ảnh: TTXVN.

Việt Nam đã có một tín hiệu tích cực khác không thể bỏ qua, đó là nhóm chỉ số về sự sáng tạo trong liên kết đổi mới, hợp tác nghiên cứu và phát triển giữa các trường đại học và doanh nghiệp đã tăng mạnh. Từ vị trí thứ 65 năm 2020, Việt Nam đã leo lên vị trí thứ 34 năm 2021. Điều này cho thấy chủ trương kết hợp lý thuyết với thực tiễn phát triển của Việt Nam đã mang lại kết quả đáng kể. Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ hiện đại và các chỉ số này cũng cho thấy chiến lược phát triển của Việt Nam đang diễn ra đúng hướng, từ việc đầu tư nguồn lực đến xây dựng đội ngũ lãnh đạo và lao động chất lượng cao.

Đổi mới sáng tạo thông qua khoa học – công nghệ được coi là chìa khóa giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và thoát khỏi sự lệ thuộc vào công nghệ thấp và nguồn tài nguyên. Tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình giai đoạn 2016 – 2020 vẫn đạt khoảng 6% mỗi năm (năm 2020 tăng trưởng GDP đạt 2,91%, là mức tăng trưởng cao nhất thế giới). Kích thước kinh tế và thu nhập trung bình đầu người cũng tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD và thu nhập trung bình đầu người đạt 2.779 USD). Chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3% mỗi năm giai đoạn 2011 – 2015 lên khoảng 6% mỗi năm giai đoạn 2016 – 2020. Tuy nhiên, tổng thể, mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể về đổi mới sáng tạo và tăng trưởng kinh tế, nhưng khi xem xét các chỉ số đổi mới sáng tạo trên bảng xếp hạng toàn cầu, con số này cho thấy rõ những hạn chế của Việt Nam trong lĩnh vực đổi mới khoa học – công nghệ.

Tin mới: 🏆  Quyết định là gì, có mấy loại? Thẩm quyền ban hành quyết định

Đầu tiên, chất lượng đổi mới sáng tạo của Việt Nam còn thấp, được thể hiện qua các chỉ số xếp hạng khoa học. Để đánh giá chất lượng đổi mới tốt nhất của một quốc gia, có ba chỉ số quan trọng: 1- Xếp hạng các trường đại học trong nước so với quốc tế; 2- Số lượng bằng sáng chế nộp tại các cơ quan chuyên môn; 3- Số lượng trích dẫn của công trình nghiên cứu quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam chưa được liệt kê trong danh sách các nhóm dẫn đầu về số lượng trích dẫn công trình được công bố quốc tế. Dữ liệu GII năm 2020 cho thấy, chỉ số này ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với Ma-lai-xi-a, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác (14).

Ngoài ra, Thái Lan dẫn đầu về nghiên cứu và phát triển (R&D), trong khi Phi-líp-pin đạt thứ hạng cao về chỉ số đầu ra sáng tạo và công nghệ. Việt Nam là xuất khẩu công nghệ cao nhưng phụ thuộc vào các nhà máy của các tập đoàn công nghệ lớn như Samsung. Việc này cho thấy tính gốc của đổi mới sáng tạo chưa chủ động và không đảm bảo tính lâu dài. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam thấp về công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy và xây dựng thương hiệu. Việt Nam cũng không có cụm công nghiệp nào được xếp hạng trong danh sách. Trong khi đó, Mỹ và Trung Quốc có nhiều cụm công nghiệp cao cấp. Mặc dù Việt Nam có thương hiệu nằm trong danh sách 5.000 thương hiệu có giá trị trên toàn cầu, nhưng vấn đề của Việt Nam là cần tập trung nguồn nhân lực vào nghiên cứu và phát triển để tạo ra nền tảng cốt lõi và độc lập về đổi mới sáng tạo. Việc xây dựng thương hiệu và các cụm công nghiệp công nghệ cao cũng cần được ưu tiên hàng đầu.

Việc đổi mới sáng tạo ở Việt Nam vẫn chưa đạt được tính bền vững. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam năm 2021 cho thấy nước ta có chỉ số cao về thị trường và đa dạng hóa nguồn nhân lực, tuy nhiên lại thấp về chỉ số thể chế, phát minh và sáng chế – những yếu tố quan trọng trong đổi mới sáng tạo. Ngay cả trong lĩnh vực doanh nghiệp, mức độ đổi mới sáng tạo cũng khá yếu do sự chiếm ưu thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tỷ lệ lớn. Điều này dẫn đến việc thiếu vốn, nguồn nhân lực và khả năng đổi mới công nghệ trong các ngành, nghề quy mô nhỏ. Thực tế này cho thấy tăng trưởng kinh tế và đổi mới ở Việt Nam vẫn chưa đạt tính bền vững. Theo Ngân hàng Thế giới, sự phát triển của Việt Nam đến từ những điều kiện thuận lợi về nhân khẩu học và tái cơ cấu ngành, nhưng động lực này đang giảm dần do sự suy giảm tỷ lệ sinh, già hóa dân số và chuyển đổi từ nông nghiệp sang các ngành sản xuất và dịch vụ cũng giảm. Trong giai đoạn 1996 – 2012, hai yếu tố này chiếm gần 3/4 tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người của Việt Nam. Sự suy giảm tỷ lệ sinh dẫn đến giảm nhanh tỷ lệ nhóm dân số phụ thuộc theo độ tuổi. Trong khi đó, chuyển dịch từ nông nghiệp sang ngành sản xuất và dịch vụ có năng suất cao. Hai yếu tố này làm giảm tốc độ tăng trưởng tiềm năng dài hạn của Việt Nam xuống mức ước tính khoảng 6,5%, đồng thời gây ra các chi phí cao về tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Do đó, mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2021 – 2030 cần tập trung vào chất lượng chứ không phải tốc độ tăng trưởng. Điều này đòi hỏi sự tích lũy và phân bổ các loại vốn khác nhau như vốn sản xuất, vốn nhân lực, vốn tự nhiên kết hợp với đổi mới sáng tạo. Đổi mới sáng tạo cần sự hỗ trợ từ Nhà nước, tập trung vào việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp, sở hữu trí tuệ và tình hình tài chính của doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua cải cách thể chế và thị trường.

Tin mới: 🏆  Thuế thu nhập cá nhân là gì? Vai trò của thuế thu nhập cá nhân?

Nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, việc khẳng định đúng đắn các định hướng chiến lược và áp dụng biện pháp cụ thể của Đảng, Nhà nước đã mang lại những thành tựu ban đầu. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế về đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần áp dụng một số biện pháp mạnh mẽ hơn.

Về bản chất, sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào việc tạo ra những ý tưởng mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, cùng với việc tổ chức các yếu tố về thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đổi mới sáng tạo thực chất là một hệ thống các yếu tố tổ chức, thể chế và cấu trúc kinh tế – xã hội tương tác với nhau, quy định tốc độ, hướng đi và chất lượng của quá trình đổi mới. Do đó, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn, chúng ta cần một hệ thống thể chế xã hội mới để phát triển và sử dụng công nghệ mới. Cụ thể, đổi mới sáng tạo cần được thực hiện thông qua các biện pháp kinh tế và xã hội tổng thể, nhằm tăng cường sự tham khảo, áp dụng, hợp tác và nâng cao chất lượng và lợi ích của các sản phẩm đổi mới sáng tạo. Đồng thời, chúng ta cần xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt, đảm bảo nguồn nhân lực và thể chế vận hành hiệu quả cho quá trình đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, cần tăng cường mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ từ các cơ sở đào tạo, trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, để thực hiện tốt đổi mới sáng tạo cần có sự thống nhất, nhất quán từ tư tưởng chỉ đạo đến sự vận hành của hệ thống chính sách, hệ thống quản trị công, thể chế hợp lý, kết cấu hạ tầng phục vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ một cách hoàn thiện và nguồn nhân lực có khả năng phát huy sáng tạo trong khoa học – công nghệ, đi kèm với các lộ trình cụ thể mang tính khả thi và phù hợp với điều kiện thực tế của quốc gia. Trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu cụ thể để xây dựng một xã hội hiện đại hóa và công nghiệp hóa là phải áp dụng khoa học – công nghệ và việc “áp dụng khoa học – công nghệ là động lực cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam”(20). Ở tầm mức cao hơn, để áp dụng khoa học – công nghệ, tư duy đổi mới sáng tạo phải là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình phát triển không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, mà còn ở mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, đổi mới sáng tạo được xác định là nhiệm vụ đột phá chiến lược phát triển của nước ta trong giai đoạn sắp tới. Điều này được cụ thể hóa trong “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030”, được Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 11-5-2022. Chiến lược đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng về đổi mới sáng tạo, các nội dung được đề cập đến bám sát tiến trình đổi mới sáng tạo trong từng giai đoạn với những đặc trưng riêng. Trong giai đoạn này, Việt Nam xác định phát triển đổi mới sáng tạo cùng với khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược; là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả; là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, các ngành, lĩnh vực kinh tế – xã hội, địa phương và doanh nghiệp; là nền tảng để thực hiện chuyển đổi số quốc gia, góp phần quan trọng nâng cao đời sống nhân dân, phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh(21). Với việc xác định rõ các định hướng chung về đổi mới sáng tạo, các định hướng, biện pháp cụ thể thúc đẩy, phát triển đổi mới sáng tạo cho từng ngành, lĩnh vực, cũng như xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo theo các cấp độ khác nhau đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ trong tư duy đổi mới của Đảng ta trước những thay đổi của thời đại và điều này tạo cơ sở lý luận cho những chuyển đổi của nền kinh tế trên thực tiễn, mang đến động lực phát triển, hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển tối đa năng lực của mỗi người và xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Tin mới: 🏆  Gen Y là gì? Những điều đặc biệt của thế hệ gen Y

(1) Xem: Hoàng Minh và các cộng sự: “Kết quả chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2017: Ý nghĩa và các vấn đề đặt ra”, JSTPM, 2017, t. 6, số 2, tr. 2 (2) Xem: Nguyễn Quỳnh Hoa – Ngô Quốc Dũng: “Sử dụng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu trong đánh giá quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2019, số 10, tr. 7 (3) Xem: “Innovation in Firms: A Microeconomic Perspective” (Tạm dịch: Đổi mới trong các doanh nghiệp: Quan điểm kinh tế vi mô), OECD, 2009, https://www.Oecd.Org/berlin/44120491.Pdf (4) Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu là một bộ công cụ đánh giá xếp hạng năng lực của các hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia do Trường Kinh doanh INSEAD (Pháp) xây dựng; sau đó, được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và Đại học Cornell (Mỹ) phát triển, hoàn thiện vào năm 2007 (5) GII đầu vào của đổi mới được đánh giá dựa theo 5 chỉ số chính: 1- Thể chế (môi trường chính trị, pháp luật, kinh doanh); 2- Nguồn nhân lực và hoạt động nghiên cứu (giáo dục, giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ); 3- Kết cấu hạ tầng (công nghệ thông tin và truyền thông, hạ tầng chung, năng lượng sinh thái); 4- Sự chuyên nghiệp của thị trường (tín dụng, đầu tư, thương mại và cạnh tranh); 5- Mức độ hoàn thiện của các doanh nghiệp (nhân lực tri thức, liên kết đổi mới, khả năng hấp thụ kiến thức). GII đầu ra của đổi mới là kết quả của các hoạt động đổi mới, bao gồm: 1- Kết quả khoa học (tài sản vô hình, hàng hóa, dịch vụ sáng tạo, sáng tạo trực tuyến); 2- Thành quả sáng tạo tri thức và công nghệ (sáng tạo, tác động và phổ biến các tri thức). Xem: Soumitra Dutta – Bruno Lanvin – Sacha Wunsch-Vincent: “The Global Innovation Index 2020” (Tạm dịch: Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2020), WIPO, 2020, https://www.Wipo.Int/edocs/pubdocs/en/wipo_pub_gii_2020.Pdf (6), (7) Xem: Soumitra Dutta – Bruno Lanvin – Sacha Wunsch-Vincent: “The Global Innovation Index 2020” (Tạm dịch: Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2020), Tlđd (8), (9), (10) Soumitra Dutta – Bruno Lanvin – Sacha Wunsch-Vincent: “The Global Innovation Index 2020” (Tạm dịch: Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2020), Tlđd (11) Trọng Đức: “Đổi mới sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng mới”, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 17-2-2021, http://hdll.Vn/vi/tin-tuc/doi-moi-sang-tao-tro-thanh-dong-luc-tang-truong-moi.Html (12) Trương Nguyện Thành: “Đổi mới sáng tạo thông qua Khoa học và Công nghệ: Việt Nam cần làm gì?”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, tháng 2-2016, tr. 87 – 89 (13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 61 (14) Xem: Soumitra Dutta – Rafael Escalona Reynoso: “The Global Innovation Index 2020” (Tạm dịch: Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2020), Tlđd (15) Xem: Phạm Trung Hải: “Một số vấn đề về đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Tài chính điện tử, ngày 3-8-2019, https://tapchitaichinh.Vn/tai-chinh-kinh-doanh/mot-so-van-de-ve-doi-moi-cong-nghe-cua-doanh-nghiep-viet-nam-310714.Html (16) Ngân hàng Thế giới: “Việt Nam năng động tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập cao”, chuyên đề nghiên cứu, tháng 5-2020 (17) Việc sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, mỏ, rừng) và quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng đã tạo ra chi phí lớn cho nền kinh tế. Những chi phí này bằng khoảng 6% – 10% GDP, đồng thời gây ra ô nhiễm không khí và nước nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng sống của hàng triệu hộ gia đình. Gần đây, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đã làm trầm trọng thêm áp lực đối với môi trường khi Việt Nam được xếp vào một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới. Các tác động kinh tế tiêu cực của biến đổi khí hậu dự kiến sẽ lên tới 2% – 3% sản lượng toàn cầu vào năm 2050, ngay cả với giả định thận trọng. Có nguy cơ tăng trưởng kinh tế hiện tại sẽ phải trả giá bằng chi phí của các thế hệ tương lai, do đó, Việt Nam cần thực hiện những thay đổi quan trọng để giảm chi phí tiềm ẩn và rủi ro liên quan đến chất lượng môi trường đang giảm xuống và biến đổi khí hậu. Xem: Ngân hàng Thế giới: “Việt Nam năng động tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập cao”, Tlđd (18), (19) Ngân hàng Thế giới: “Việt Nam năng động tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập cao”, Tlđd, tr. 20, 24 (20) Nguyễn Thiện Phúc: “Đổi mới sáng tạo khoa học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Tuyên giáo, 2015, số 4, tr. 63 (21) Xem: Quyết định số 569/QĐ-TTg, ngày 11-5-2022, của Thủ tướng Chính phủ “Ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030”.

Tin mới: 🏆  Fiscal Policy là gì? Các công cụ của Fiscal Policy

Add a comment