Kỹ trị và vận dụng kỹ trị trong mở rộng dân chủ ở Việt Nam

Kỹ trị và vận dụng kỹ trị trong mở rộng dân chủ ở Việt Nam

Tài Chính
23/09/2023 by ACRANUP Network
317
Việt Nam không thiết lập một hệ thống quản trị giống như phương Tây. Trong chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước cần thật sự đại diện cho và phục vụ nhân dân – Ảnh: baothainguyen.Vn. 1. Xuất xứ và bản chất của thuật ngữ “quản lý kỹ” Thuật ngữ kỹ trị (technocracy) xuất phát
ky-tri-va-van-dung-ky-tri-trong-mo-rong-dan-chu-o-viet-nam-702131

Kỹ trị và vận dụng kỹ trị trong mở rộng dân chủ ở Việt Nam

Việt Nam không thiết lập một hệ thống quản trị giống như phương Tây. Trong chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước cần thật sự đại diện cho và phục vụ nhân dân – Ảnh: baothainguyen.Vn.

1. Xuất xứ và bản chất của thuật ngữ “quản lý kỹ”

Thuật ngữ kỹ trị (technocracy) xuất phát từ tiếng Hy Lạp, với τέχνη, tekhne có nghĩa là kỹ năng và κράτος, kratos có nghĩa là quyền lực. Vào năm 1919, William Henry Smyth sử dụng thuật ngữ “kỹ trị” để miêu tả “sự cai trị hiệu quả của người dân thông qua các cơ quan công chức, nhà khoa học và kỹ sư” trong bài báo “Kỹ trị – Những cách thức và phương tiện để đạt được nền dân chủ công nghiệp” trên tạp chí Industrial Management(1). Bằng cách sử dụng từ “kỹ trị”, W.H.Smyth nhấn mạnh đến phong trào nền dân chủ công nghiệp, trong đó kỹ sư và nhà khoa học đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định của các công ty.

Trong giai đoạn suy thoái kinh tế đầu những năm 1930, vấn đề kỹ trị trở thành một đề tài quan tâm của công chúng, vì vai trò quan trọng của nó trong việc phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Vào thời điểm đó, Howard Scott đã thành lập Phong trào kỹ trị và thuật ngữ “kỹ trị” được hiểu là “chính phủ đưa ra quyết định dựa trên các yếu tố kỹ thuật”. Thuật ngữ “technocrat” (nhà kỹ trị) được sử dụng để chỉ những người có quyền thực thi chính phủ dựa trên kiến thức của họ, những người được xem là thành viên của tầng lớp kỹ thuật ưu tú hoặc những người ủng hộ quyền lực tối cao của các chuyên gia kỹ thuật.

Kỹ trị ngày nay có thể được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau như một quyền lực, một phương pháp ra quyết định hay một hình thức chính phủ.

Nếu chính trị được định nghĩa là xung đột về quyền lực trong phân chia giá trị (tức xung đột trong quyết định về mục tiêu của các chính sách), thì kỹ trị là một dạng quyền lực, trong đó các chuyên gia quyết định việc phân bổ các giá trị một cách độc lập, dựa trên kiến thức chuyên môn của họ và vì lợi ích lâu dài của toàn xã hội. Kiến thức và chuyên môn vượt trội chính là cơ sở của kỹ trị, là cái tạo nên tính chính đáng của quyền lực kỹ trị. Tuy nhiên, kỹ trị không thể phi chính trị hoặc trung lập mà quyền lực kỹ trị bắt nguồn chính từ việc từ bỏ tính trung lập chính trị.

Cách tiếp cận kỹ trị như một phương pháp ra quyết định liên quan đến bản chất của kỹ trị: các chuyên gia tuân thủ các quy tắc chuyên môn trong các lĩnh vực cụ thể. Kỹ trị được miêu tả như một phương pháp ra quyết định dựa trên ý tưởng về “phương án tốt nhất” được đưa ra bởi những chuyên gia, những người hiểu rõ nhất về các phương tiện và cách thức để đạt được mục tiêu(6).

Vì không bị ảnh hưởng bởi sự ủng hộ của cử tri và không phải đối mặt với áp lực từ các nhóm lợi ích, các nhà chính trị có thể đưa ra những hành động có trách nhiệm với tầm nhìn dài hạn cho sự phát triển chung. Họ có thể đưa ra các kết luận trong các lĩnh vực hoặc ngành nghề dựa trên chuyên môn một cách khách quan và đáng tin cậy.

McDonnell và Valbruzzi đã xác định rằng một thủ tướng hoặc bộ trưởng được coi là một nhà kỹ trị nếu tại thời điểm được bổ nhiệm vào chính phủ, người đó không từng nắm giữ chức vụ công dưới ngọn cờ của bất kỳ đảng chính trị nào, không phải là thành viên chính thức của bất kỳ đảng phái nào và được cho là có kiến thức chuyên môn chính trị phi đảng phái được công nhận có liên quan trực tiếp đến vai trò đảm nhiệm trong chính phủ.

Tin mới: 🏆  Tài sản gắn liền với đất gồm những gì? Có được cấp sổ đỏ không?

Kỹ trị có thể được xem như một loại chính phủ, được gọi là chế độ kỹ trị. Chế độ kỹ trị là một hệ thống quản lý trong đó người ra quyết định hoặc những người thực thi được bầu chọn hoặc bổ nhiệm bởi dân chúng dựa trên chuyên môn của họ trong một lĩnh vực trách nhiệm cụ thể, đặc biệt là về kiến thức khoa học hoặc kỹ thuật. Do đó, quyết định của họ được đưa ra dựa trên dữ liệu khoa học hoặc phương pháp luận khách quan được hỗ trợ bởi khoa học. Người ra quyết định được chọn dựa trên kiến thức chuyên môn và hiệu quả hoạt động thay vì các kỹ năng chính trị hoặc nghị viện. Hệ thống này được cho là hoàn toàn trái ngược với dân chủ đại diện, nơi người ra quyết định trong chính phủ là các đại diện được bầu chọn.

Kỹ trị đã được áp dụng để chỉ các chính phủ được lãnh đạo bởi các chính trị gia chuyên nghiệp, không có thủ tướng được bầu. Ví dụ, Chính phủ Hy Lạp trong giai đoạn 2011 – 2012 do nhà kinh tế Lucas Papademos dẫn đầu, Chính phủ Cộng hòa Séc trong giai đoạn 2009 – 2010 do Jan Fischer lãnh đạo, hoặc chính phủ do các đảng chính trị đồng thuận thành lập ở Tunisia do Mehdi Jomaa lãnh đạo.

Mọi hệ thống nơi quyền lực (hoặc những bộ phận quan trọng nhất của nó) nằm trong tay những người được chọn dựa trên chuyên môn và năng lực, thay vì thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng, đều có những đặc điểm của một chế độ kỹ trị.

Về cơ bản, kỹ trị xác định một tầng lớp tinh hoa dựa trên kiến thức, chuyên môn, bằng cấp và kinh nghiệm, khác biệt hoàn toàn so với những người dân thông thường. Những người này được coi là xuất sắc nhất và do đó, họ có thể và nên đứng đầu xã hội dựa trên quyết định của chính mình mà không phải quan tâm đến sở thích hay lợi ích của những người thông thường, những người ít được trang bị kiến thức, kỹ năng, thông tin và thời gian, hoặc dễ bị ảnh hưởng bởi những động cơ và mục đích tư lợi khác.

Quan hệ giữa chính trị và dân chủ.

Từ thế kỷ XIX trở đi, đã diễn ra hàng loạt cuộc cách mạng xã hội và công nghiệp trên khắp phương Tây, tạo nền tảng cho hệ thống dân chủ hiện đại. Những cuộc cách mạng này đã mang đến hai thay đổi quan trọng: thứ nhất là nhà nước trở thành hình thức chính trị chủ yếu, thay thế chế độ độc tài; thứ hai là chủ nghĩa tư bản trở thành phương thức sản xuất chính, thay thế nông nghiệp với kinh tế công nghiệp.

Hai quá trình quan trọng này đã tạo nên hai cộng đồng to lớn: một cộng đồng văn hóa và một cộng đồng kinh tế. Kỹ trị ra đời để đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội đang thay đổi và ngày càng phức tạp do sự phát triển của các cuộc cách mạng. Tuy nhiên, do ưu việt về tri thức, kỹ năng và các yếu tố khác, kỹ trị ngày càng có ảnh hưởng lớn và từ từ thách thức nền dân chủ theo nhiều cách khác nhau.

Tin mới: 🏆  Quy định mới về chuyển đổi đất xen kẹt

Theo Pier Domenico Tortola, chế độ kỹ trị có thể vi phạm nguyên tắc dân chủ bằng cách tước quyền lực chính trị tối cao từ các thể chế và vị trí được hợp pháp thông qua bầu cử(8). Khi đạt đến mức độ chế độ kỹ trị, quyền lực không nằm trong tay của những người được ủy quyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ dân chúng; họ cũng không phải chịu trách nhiệm giải trình cho các quyết định chính sách của mình. Trong các chế độ kỹ trị, dân chủ chỉ còn là một nghi thức bầu cử diễn ra định kỳ, nhưng không tạo ra sự ủy quyền thực sự.

Khi các tập đoàn công nghệ đa quốc gia mở rộng thị trường và khách hàng, lời phê phán về chính phủ kỹ trị cũng ngày càng gia tăng.

Từ năm 1982, John G.Gunnell đã nhận thấy rằng sự thay đổi công nghệ đang ngày càng ảnh hưởng đến chính trị và đã đề xuất ba cấp độ phân tích để đánh giá tác động chính trị của công nghệ: quyền lực chính trị có xu hướng thu hút những tài năng công nghệ; công nghệ có tính tự trị và không thể bị ảnh hưởng bởi cấu trúc chính trị, tạo nên một hệ tư tưởng mới; ông cũng dự đoán sự xâm nhập của công nghệ vào quá trình chính trị và cho rằng sự kết hợp giữa công nghệ và chính trị sẽ tạo ra sự tập trung quyền lực xung quanh những người được đào tạo về công nghệ tiên tiến, đặc biệt là các nhà kỹ trị.

Thứ hai, chế độ kỹ trị có thể che đậy bản chất chính trị của nó, nhằm thực hiện lợi ích cá nhân vượt ra khỏi sự kiểm soát của người dân. Kỹ trị tập trung vào hiệu quả của các phương tiện đối với những mục tiêu cụ thể, nhưng nó loại bỏ sự tham gia của người dân trong việc thảo luận về những mục tiêu đó. Trong việc thực hiện quyền lực chính trị, những nhà kỹ trị thể hiện tính khách quan và độc lập với hệ tư tưởng. Tuy nhiên, khoa học chuyên môn và kỹ thuật không thể tách rời khỏi các vấn đề xã hội và kinh tế, không thể cách ly với chính trị. Lạm dụng kỹ trị có thể dẫn đến sự suy giảm vốn xã hội và lòng tin. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu hoặc khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro đều gây ra và làm trầm trọng hơn sự thiếu lòng tin của người dân.

Trong thực tế, các nhà quản trị được xem là phục vụ cho hệ thống, điều này giúp họ tránh việc tiết lộ động cơ thực sự và chịu trách nhiệm chính trị. Tuy nhiên, trong bất kỳ hệ thống chính trị nào, việc ra quyết định phi chính trị là không thực tế. Áp dụng quản trị trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể luôn đòi hỏi đánh giá và lựa chọn giữa các giá trị, lợi ích và sở thích cạnh tranh. Mặc dù việc ủy quyền quyết định cho các chuyên gia là cần thiết để giải quyết sự phức tạp ngày càng tăng trong quản lý xã hội, hạn chế sự can thiệp và thao túng của các chính trị gia vào chính sách, hạn chế tác động ngắn hạn của các biện pháp bầu cử đối với hoạch định chính sách, nâng cao chất lượng và uy tín của quản trị công, nhưng một chế độ quản trị lại thiếu tranh luận và trách nhiệm giải thích trong khi chính chế độ quản trị cũng có thể sai lầm hoặc bị chính trị hóa.

Tin mới: 🏆  Quy định tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi chi tiết nhất

Theo J.Habermas, chế độ kỹ trị xuất phát từ nhu cầu sử dụng chính sách công để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội. Các nhà kỹ trị đã thành công trong việc đáp ứng nhu cầu này, đảm bảo mức phúc lợi tối thiểu, việc làm ổn định, thu nhập đáng tin cậy, an sinh xã hội và cơ hội thăng tiến cá nhân cho công chúng. Tuy nhiên, để đạt được điều này, chế độ kỹ trị đã chính trị hóa những người nhận, buộc họ phải trung thành với chủ nghĩa kỹ trị. Bằng cách giảm thiểu rủi ro kinh tế cho nhân dân, chế độ kỹ trị đã chuyển chính trị sang việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật và tách biệt nó khỏi hành động giao tiếp và cuộc thảo luận dân chủ không bị ép buộc về mục đích. Tuy nhiên, chỉ có những cuộc thảo luận như vậy mới có thể hợp pháp hóa những mục đích mà chế độ kỹ trị cung cấp các phương tiện để đạt được. Vì thiếu tính hợp pháp của dân chủ, kỹ trị trở nên vô lý về mặt giá trị, mặc dù nó có tính hợp lý về mặt công cụ.

Mặc dù bị chỉ trích như vậy, chế độ kỹ trị vẫn tồn tại song song với sự phát triển mạnh mẽ của dân chủ trong suốt hơn một thế kỷ qua.

Trước hết, trong quan hệ với dân chủ, kỹ trị được coi như là công cụ để đạt được mục tiêu. Năm 1958, Isaiah Berlin đã phân biệt giữa mục tiêu chính trị và các phương tiện để đạt được mục tiêu đó: Khi các mục tiêu đã được thỏa thuận, câu hỏi duy nhất còn lại là về phương tiện. Phương tiện không tương đồng với mục tiêu, bởi vì chúng có tính chất “kỹ thuật” và do đó có thể được giải quyết bởi các chuyên gia hoặc máy móc (11).

Mục tiêu của kỹ trị là thúc đẩy phát triển xã hội và kinh tế bằng cách giải quyết những vấn đề như thất nghiệp, lạm phát, chất lượng giáo dục kém, hệ thống chăm sóc sức khỏe rối loạn… Theo J.Habermas trong cuốn Khoa học về chính trị và ý kiến công chúng, kiến thức khoa học mà các nhà kỹ trị sở hữu giúp họ tạo ra các phương tiện chính sách hiệu quả để đạt được mục tiêu chính trị cụ thể(12). Ngoài ra, việc lựa chọn phương tiện của các nhà kỹ trị cũng dựa trên sự hướng dẫn của khoa học, mang tính hợp lý về mặt công cụ.

Để bảo vệ chế độ dân chủ, một mặt, những nhà chính trị cần có kiến thức đáng tin cậy về cách giải quyết, giảm thiểu hoặc ngăn ngừa các vấn đề kinh tế và xã hội; mặt khác, “các chuyên gia khoa học cung cấp tư vấn cho người ra quyết định và các nhà chính trị tham khảo ý kiến các nhà khoa học phù hợp với nhu cầu thực tế” – các nhu cầu được xác định theo cách dân chủ(13). Khi đó, các chính trị gia có thể sử dụng hiểu biết của các chuyên gia để lựa chọn chính sách tốt nhất cho mục tiêu đó một cách hợp pháp. Khi đó, “sự cung cấp thông tin từ các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau vào hệ thống chính trị cho phép phát hiện sớm các vùng rủi ro và đối phó với các mối nguy hiểm thực tế”(14).

Dân chủ, ở một mặt khác, là hệ thống để bảo vệ sự hiệu quả của chính phủ. Giá trị của dân chủ không nằm ở việc nhân dân trở thành những chuyên gia chính trị tài ba, mà nằm ở quyền kiểm soát sự lạm quyền và sửa sai của các nhà lãnh đạo. Mặc dù các chuyên gia thường được giao quyền giải quyết các vấn đề xã hội, sự nghi ngờ về việc người dân thông thường không đủ trang bị để đánh giá chi phí và lợi ích của chính sách, cũng như sự thiếu hiểu biết và thái độ chính trị không rõ ràng của họ… Là không có cơ sở. Mặc dù không thể chắc chắn rằng hầu hết mọi người có những quan điểm chính sách mạnh mẽ dựa trên bằng chứng thực tế, họ vẫn phải cân nhắc giữa cảm nhận chi phí và lợi ích nhận thức được.

Tin mới: 🏆  Lợi thế so sánh là gìVí dụ về lợi thế so sánh dễ hiểu nhất

3. Tiếp cận kỹ trị trong quá trình phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Mối quan hệ giữa chính sách và dân chủ trong cuộc sống chính trị Việt Nam.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thực hiện chủ trương nhất quán về dân chủ nhân dân và dân chủ XHCN. Theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ chuyển tiếp sang chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ và cũng là mục tiêu, động lực cho sự phát triển đất nước. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định mọi thành công của cách mạng Việt Nam, và sự tham gia của nhân dân làm chủ là bản chất của chế độ dân chủ XHCN. Thực hiện dân chủ có nội dung cơ bản là Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn bộ xã hội phát triển theo định hướng XHCN; Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể hiện quan điểm và đường lối của Đảng qua chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để đảm bảo lợi ích của nhân dân; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hoạt động theo đường lối của Đảng, tuân thủ pháp luật của Nhà nước và đảm bảo quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm tham gia trực tiếp vào việc xây dựng, hoàn thiện và thi hành các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được đề xuất trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và đang trở thành phương châm hành động cụ thể để thực hiện dân chủ trong toàn xã hội.

Việc xác định vị thế của dân chủ XHCN như vậy, rõ ràng, sẽ không làm cho Việt Nam xây dựng một “chế độ kỹ trị” theo kiểu phương Tây. Trong chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước thực sự phải trở thành Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, và các cơ chế kỹ trị phải áp đảo trong việc định đoạt chính sách quốc gia quan trọng. Trái lại, trong “chế độ kỹ trị”, các yếu tố quan trọng của dân chủ như: dân chủ trực tiếp, ủy quyền, dân chủ tham gia… Gần như bị loại bỏ. Có thể thấy, trong các “chế độ kỹ trị”, chính phủ với cái tên “vì nhân dân” thực tế không phải là chính phủ “do nhân dân”.

Có cần xây dựng một “chế độ kỹ trị” tại Việt Nam với các nhà lãnh đạo cấp cao có chuyên môn cao về khoa học và công nghệ?

Trong trường hợp chính trị, việc đạt được một quyết định chung ở cấp quốc gia yêu cầu sự thỏa hiệp giữa nhiều đảng phái. Tuy nhiên, trong kỹ trị, sự cạnh tranh giữa các đảng phái được bỏ qua. Do đó, chế độ kỹ trị chỉ có lợi thế trong các hệ thống chính trị đa đảng.

Tin mới: 🏆  Vốn ODA là gì? Những quy định về vốn ODA ở Việt Nam

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất đang nắm quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn trong quá trình phát triển lịch sử không chỉ nhờ vào “chế độ kỹ trị” của các lãnh đạo có trình độ cao về khoa học – công nghệ hay kỹ thuật, mà còn nhờ vào việc các quyết sách chính trị đều được xây dựng dựa trên ý chí tập thể, thông qua đối thoại, tranh luận, phản biện một cách cầu thị, khoa học và có trách nhiệm với vận mệnh của quốc gia – dân tộc.

Ngoài ra, cần nhìn nhận các nhà lãnh đạo cấp cao là các chính trị gia. Giữa chính trị gia và nhà kỹ trị có sự khác biệt rõ ràng: Trong khi chính trị gia có mối liên hệ trực tiếp với đảng chính trị và cử tri, thì nhà kỹ trị được tuyển dụng chủ yếu dựa trên chuyên môn. Các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam cần có tầm nhìn chiến lược đúng đắn trong việc xây dựng, hoạch định chiến lược, chính sách phát triển của đất nước, của ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách. Việc lãnh đạo chính trị và hoạt động ra quyết định không đơn thuần chỉ là các quy tắc và thủ tục máy móc, trong đó kiến thức khoa học là yếu tố duy nhất.

Sự thành bại của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lịch sử, địa chính trị và văn hóa. Các quốc gia thành công không chỉ do nhóm người cho rằng họ xuất sắc hơn người thường, mà còn do những lãnh đạo của họ không làm người dân thất vọng.

Việt Nam có cần chăm sóc hay không?

Trong mọi hình thức chính trị, việc không có hoàn toàn quyền lực kỹ trị là không thực tế, tuy nhiên chỉ khi vượt qua một ngưỡng nhất định, một hệ thống mới được coi là kỹ trị. Trên khắp thế giới, hầu hết các chính phủ đều lựa chọn các chuyên gia kỹ trị để lãnh đạo các cơ quan quan trọng, yêu cầu các kỹ năng và chuyên môn chuyên biệt.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, việc tăng cường sự độc lập chính trị của các nhà kỹ trị sẽ vượt ra ngoài phạm vi của dân chủ. Khi các chính sách không phải là kết quả của việc tổng hợp các ý kiến hoặc lợi ích đa số, thì rõ ràng cuộc sống chính trị không còn là trách nhiệm của dân chúng – những người luôn được xem là người có quyền lực theo hiến pháp dân chủ.

Việt Nam không áp dụng “chế độ quản trị” theo mô hình phương Tây, tuy nhiên, vẫn cần sự hiện diện của quyền lực quản trị. Quyền lực quản trị được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm quyền lực của các chuyên gia đảm nhận vai trò cố vấn, các bộ trưởng và người đứng đầu các cơ quan thực hiện quyền hành pháp hoặc cơ quan điều hành.

Việt Nam đang xây dựng một hệ thống hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, linh hoạt, hiệu quả và có khả năng định hình sự phát triển. Do đó, việc có những chuyên gia trong lĩnh vực quản trị là rất cần thiết. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc người đứng đầu quốc gia cần được đào tạo chuyên sâu về khoa học, công nghệ hoặc kỹ thuật; và cũng không yêu cầu người đứng đầu các cơ quan, tổ chức phải có kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực mà họ đang lãnh đạo.

Tin mới: 🏆  Phần mềm quản trị doanh nghiệp

Kỹ trị sẽ sống chung như thế nào với chế độ dân chủ?

Quá trình xây dựng “chế độ kỹ trị” trong hệ thống quản lý nhà nước ở phương Tây đã thấy sự suy giảm dân chủ ngày càng tăng lên, kể cả ở những quốc gia có nền dân chủ lâu đời. Tuy nhiên, kỹ trị lại là một yếu tố cần thiết cho một chế độ dân chủ ở Việt Nam – nơi mà do những nguyên nhân lịch sử, tinh thần duy lý chưa hình thành rõ ràng trong cách nghĩ, cách sống, tâm lý và thói quen của người dân.

Nói chung, người dân phải đối diện với giới hạn của lý tính và chịu sự ảnh hưởng của những mong muốn và lợi ích cá nhân, dẫn đến khả năng đưa ra những quyết định không chính xác. Vì vậy, chính sách không luôn là kết quả của việc tổng hợp ý kiến hay lợi ích đa số. Trong những trường hợp như vậy, việc giao quyền cho các chuyên gia sẽ đảm bảo rằng lợi ích xã hội được thiết lập một cách hợp lý và khoa học, tức là khách quan và lâu dài. Mức độ quản lý quốc gia phụ thuộc vào sự cân nhắc giữa dân chủ và quyền lực, và liên quan đến những mục tiêu chính trị được xác định rõ ràng.

Bài viết trên Tạp chí Lý thuyết chính trị số 538 (tháng 12-2022).

Ngày nhận bài: 31-10-2022; Ngày xem xét: 12-12-2022; Ngày phê duyệt đăng: 19-12-2022.

(1) https://encyclopedia.Pub/entry/29497#ref_1.

(2) Phong trào kỹ trị bắt đầu tại Hoa Kỳ vào đầu những năm 1930, dưới sự khởi xướng của Howard Scott và Marion King Hubbert. Phong trào đề xuất thay thế chính phủ bằng các nhà kỹ trị, như các nhà khoa học và kỹ sư, sở hữu các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để quản lý nền kinh tế. Ngoài ra, phong trào này cũng cam kết từ bỏ chính trị đảng phái và cách mạng.

(3) “Thông tin về Kỹ thuật chính trị, sự thật, hình ảnh | Bài viết về Kỹ thuật chính trị trên Encyclopedia.Com”. Http://www.Encyclopedia.Com/topic/Technocracy.Aspx.

(4) Wickman, Forrest (11-2011). “Technocrats là gì?”. Nhóm Slate. Http://www.Slate.Com/articles/news_and_politics/explainer/2011/11/technocrats_and_the_european_debt_crisis_what_s_a_technocrat_.Html.

(5) “Các chuyên gia kỹ thuật: Tâm trí như máy móc”. Tạp chí Economist. 19 tháng 11 năm 2011. Http://www.Economist.Com/node/21538698. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2012.

(6) Xem: Eri Bertsou và Daniel Caramani (Chủ biên) (2020), Thách thức Kỹ thuật chính trị đối với Dân chủ”, Routledge, tr.62.

McDonnell và Duncan (2014) đã đề xuất một định nghĩa và phân loại các chính phủ do những chuyên gia kỹ thuật dẫn đầu và chính phủ kỹ thuật. Nghiên cứu này đã được công bố trong tạp chí European Journal of Political Research, số 53 (4), trang 654-671. Đường dẫn đến bài báo này có sẵn tại: https://www.Researchgate.Net/publication/.

261568742.

(8) Đọc Eri Bertsou và Daniel Caramani (Chủ biên), Thách thức Kỹ thuật chính trị đối với Dân chủ” – Kỹ thuật chính trị và phi chính trị hóa, Routledge, 2020, tr.69.

(9) Gunnell, John G. “Hình ảnh kỹ thuật và lý thuyết về kỹ thuật chuyên gia”. Công nghệ và Văn hóa 23 (3), tháng 7 năm 1982, tr. 392-416. Doi: 10.2307 / 3104485.

PMID 11611029. Https://dx.Doi.Org/10.2307%2F3104485.

(10), (14) Đọc cuốn sách của Jeffrey Friedman, Quyền lực mà không có Kiến thức: Một phê phán về Kỹ thuật chuyên chế, Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2019, tr.3, 3.

(11) Isaiah Berlin, Bốn Bài Luận về Tự Do, Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1969, tr.118.

(12), (13) Jürgen Habermas, Hướng tới một Xã hội Hợp lý, 1968, tr.62, 65, 66-67.

(15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84-85.

Add a comment